Với vị trí địa lý đặc biệt, dịch vụ logistics được xác định là một ngành quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Thị trường logistics của Việt Nam
nhiều tiềm năng nhưng rất phân tán. Chính vì vậy, để tạo sức bật cho lĩnh vực
này cần có những chính sách hấp dẫn, thu hút sự đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp.
Đây cũng là nội dung chính tại Hội
thảo: "Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
logistics" do Báo Công Thương phối hợp với Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công
Thương) và Bộ Giao thông vận tải tổ chức sáng nay (28/4), tại Hà Nội.
Chi phí logistics còn cao
Theo số liệu từ Hiệp hội Doanh
nghiệp logistics Việt Nam, hiện 90% các doanh nghiệp logistics đang hoạt động
là doanh nghiệp Việt Nam, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc
về các doanh nghiệp nước ngoài.
Đáng chú ý, số lượng doanh nghiệp
nhiều nhưng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực
cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong
chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp
xuất nhập khẩu.
Chính vì vậy, ở cả chiều mua và
bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi.”
Không những vậy, số lượng doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ logistics tích hợp (3PL: cung cấp dịch vụ logistics bên
thứ ba hay logistics theo hợp đồng) và 4PL (cung cấp dịch vụ logistics thứ tư
hay logistics chuỗi phân phối) tại Việt Nam còn hạn chế.
Tỷ trọng các doanh nghiệp 3PL,
4PL mới chỉ chiếm 16% tổng số doanh nghiệp trong ngành logistics (báo cáo
logistics Việt Nam 2019), tuy nhiên, miếng bánh này lại nằm chủ yếu trong tay
các doanh nghiệp nước ngoài.
Vì vậy, theo đại diện các doanh
nghiệp, Việt Nam có chi phí logistics cao hơn nhiều so với các nước trên thế giới.
Điều này tạo rào cản cho năng lực cạnh tranh trên thị trường củaViệt Nam.
Trong nhiều khó khăn, vướng mắc,
theo ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn, giá
nhiên liệu tăng đột biến trong năm 2022 (tăng khoảng 33% so với giá trung bình
2021) ảnh hưởng đến chi phí của doanh nghiệp.
Hơn nữa, về thủ tục của các cơ
quan hữu quan còn chưa tạo điều kiện thuận lợi như việc kiểm soát hàng quá cảnh
qua các cửa khẩu, gây khó khăn cho các hãng tàu, khách hàng...
Đơn cử, tỷ lệ kiểm hóa tăng cao,
thời gian kiểm hóa lâu phát sinh phí lưu cont cho khách hàng, chậm giao nguyên
liệu vào sản xuất. Một số mặt hàng là quá cảnh nhưng chịu qui trình thủ tục như
hàng xuất nhập khẩu và thị trường nội địa như: giấy phép con về kiểm dịch, giấy
phép con xin quota, ... đặc biệt thời gian dịch bệnh quy trình xử lý thủ tục
còn rườm rà.
Ngoài ra, hệ thống giao thông đường
bộ phát triển chưa đồng bộ, triển khai chưa đúng tiến độ, như chưa khép kín
vành đai 2, xây dựng vành đai 3, 4, tuyến đường cao tốc Đồng Nai-Vũng Tàu, kết
nối các khu công nghiệp, các tỉnh với hệ thống cảng biển.
Còn theo bà Phạm Thị Lan Hương, đại
diện Công ty Vinafco, trong mảng 3PL, hầu hết các doanh nghiệp logistics hàng đầu
thế giới đã có mặt tại Việt Nam và chiếm tỷ trọng lớn về doanh thu so với các
doanh nghiệp nội địa (doanh nghiệp ngoại chiếm 75% thị phần còn lại 25% là của
doanh nghiệp Việt Nam).
Với thực tế này, cũng đặt ra nhiều
thách thức cho doanh nghiệp việt Nam về cạnh tranh, chất lượng dịch vụ và cả ứng
dụng công nghệ thông tin cũng như nguồn nhân lực.
Kết nối để nâng cao năng lực cạnh tranh
Với vị trí địa lý đặc biệt, dịch
vụ logistics được xác định là một ngành quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền
kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế.
Theo Thứ trưởng Bộ Công Thương
Nguyễn Sinh Nhật Tân, Chính phủ Việt Nam cũng đã xác định logistics là một
ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai
trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng
như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Tại Quyết định số 221/QĐ-TTg ngày
22/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ đã đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ trọng đóng
góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt 5%-6%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ
logistics đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí
logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số LPI trên thế
giới đạt thứ 50 trở lên...
“Quyết định 221 cũng đặt ra 6
nhóm nhiệm vụ chính mà các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội cần thực hiện để đạt
được mục tiêu nêu trên. Trong đó, nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng
dịch vụ là 1 trong 6 nhóm nhiệm vụ chính mà Thủ tướng Chính phủ đã đặt ra,” Thứ
trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nêu rõ.
Để tạo ra nhiều đột phá, theo đại
diện Công ty cổ phần KARGO 365, chuyển đổi số sẽ giúp các doanh nghiệp khai
thác tối đa nguồn lực, mở rộng thị trường, tiết kiệm chi phí, tăng thêm năng lực
ứng phó với các khủng hoảng, biến cố của thị trường.
Hơn nữa, chuyển đổi số giúp xóa
đi khoảng cách giữa các bộ phận trong một doanh nghiệp vì khi áp dụng chuyển đổi
số, doanh nghiệp đã tạo ra một nền tảng kết nối được tất cả các bộ phận trong
doanh nghiệp. Từ đó nâng cao năng suất lao động của nhân viên, cũng như nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, phục vụ khách hàng tốt hơn.
Tại hội thảo, các ý kiến của hiệp
hội và doanh nghiệp cũng cho rằng, trong thời gian tới, ngành logistics cần xây
dựng và phát triển đội ngũ nhân lực logistics chất lượng cao có đầy đủ kiến thức,
kỹ năng đáp ứng được yêu cầu công việc, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, đặc biệt
là trong môi trường làm việc quốc tế.
Các đơn vị phải tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin, hiện đại hóa phương thức quản lý và vận hành, sử dụng hệ
thống phần mềm, nền tảng tối ưu hóa logistics nhằm cắt giảm chi phí logistics,
nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt
động liên doanh, liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ logistics với nhau và với
doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và cải thiện
năng lực cung cấp dịch vụ logistics.
Đặc biệt, phát huy tính năng động,
sáng tạo của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập; xây dựng giải pháp, chiến lược
trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp, khả năng
chống chịu, thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của thị trường, quyết tâm
mở rộng phạm vi kinh doanh ra các thị trường bên ngoài Việt Nam./
0 Comments