Quốc hội Việt Nam qua các thời kỳ (quochoi.vn)

 1.1 Thời kỳ 1946-1960

Bối cảnh lịch sử

Trong giai đoạn 1946 đến 1960, Quốc hội nước ta đã cùng với dân tộc trải qua nhiều khó khăn, gian khó để thực hiện sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tố quốc. Trong năm 1946, Quốc hội đã có những hành động quyết liệt để đoàn kết, thống nhất dân tộc, chống giặc ngoài, thù trong, xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng. Tiếp đó, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc (1946 – 1954), Quốc hội đã cùng với nhân dân thực hiện cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, quyết liệt trên các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa… Để sự lãnh đạo và điều hành chiến tranh được tập trung thống nhất, Quốc hội đã giao quyền bính tập trung vào chính phủ. Ban thường trực Quốc hội luôn ở bên cạnh Chính phủ để bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ về mọi công việc kháng chiến. Phù hợp với tình hình thực tế lúc đó, Ban thường trực Quốc hội đã quyết định: “Trong thời kỳ kháng chiến, vì tình thế khó khăn nên chỉ có Trưởng ban thường trực Quốc hội ở cùng với Chính phủ để giúp và theo dõi đường lối chính trị, cùng với Chính phủ chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Các đại biểu Quốc hội sẽ tùy năng lực và địa vị mà tham gia vào mọi công tác kháng chiến”. Đây là một nét rất đặc biệt của Quốc hội Việt Nam trong giai đoạn này – Quốc hội kháng chiến.

Trong giai đoạn từ năm 1954 đến 1960, theo Hiệp định Genève, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Bắc – Nam. Trong bối cảnh đó, Quốc hội đã cùng với nhân dân Việt Nam đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng khác nhau. Miền Bắc sau khi giải phóng đã bước vào thời kỳ khôi phục, cải tạo, phát triển kinh tế và văn hóa theo con đường xã hội chủ nghĩa. Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam tiến tới hòa bình, thống nhất đất nước. Trong nhiệm kỳ 14 năm hoạt động, Quốc hội khóa I đã tổ chức 12 kỳ họp, trong đó có duy nhất một kỳ họp được tổ chức ngoài Thủ đô Hà Nội là kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I được tổ chức vào năm 1953 tại chiến khu Việt Bắc (từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 12 năm 1953).

Kết quả hoạt động

- Bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946

- Tổng số đại biểu: 403

- Trong đó: 333 đại biểu được dân bầu, 70 đại biểu không qua bầu cử (có 20 đại biểu thuộc Việt Nam Cách mạng đồng minh hội và 50 đại biểu thuộc Việt Nam quốc dân đảng).

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Trí thức:                      61%

+ Công kỹ nghệ gia:        0,6%

+ Buôn bán:                    0,5%

+ Thợ thuyền:                 0,6%

+ Nông dân:                    22%

Quốc hội khoá I (1946-1960) với 12 kỳ họp đã có những đóng góp to lớn vào việc xây dựng nhà nước dân chủ cộng hòa từ những năm tháng đầu tiên sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Trong thời kỳ này, Quốc hội đóng vai trò rất quan trọng trong việc thành lập Chính phủ hợp hiến, hợp pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và "trao quyền bính cho chính quyền ấy", bảo đảm cho Chính phủ đủ uy tín, hiệu lực để tổ chức nhân dân kháng chiến, kiến quốc, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến tháng lợi hoàn toàn. Từ năm 1954 đến năm 1960, Quốc hội đã phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà theo quy định của Hiệp định Genève. Những năm đầu sau khi hòa bình lập lại, Quốc hội cũng đã thông qua các kế hoạch khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, đưa miền Bắc tiến dần từng bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Trong nhiệm kỳ 14 năm hoạt động, Quốc hội khoá I đã xem xét và thông qua bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, 16 đạo luật và 50 nghị quyết, trong đó có những đạo luật quan trọng như Luật cải cách ruộng đất, Luật quy định quyền tự do hội họp, Luật quy định quyền lập hội, Luật bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật và thư tín của nhân dân và Luật về chế độ báo chí. Đây là những đạo luật quy định những quyền tự do rất cơ bản của người dân.

Luật hôn nhân và gia đình (1959) quy định nguyên tắc chung về kết hôn tiến bộ một vợ một chồng; trách nhiệm và quyền lợi của vợ chồng, về quan hệ giữa cha mẹ và con cái và vấn đề ly hôn... Luật bầu cử Quốc hội (1959) quy định tất cả “công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền bầu cử Quốc hội và từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội”.

Ngay từ những ngày đầu khi vừa giành được chính quyền, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã góp phần quan trọng vào hoạt động đối ngoại chung của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quốc hội đã nhất trí để Chính phủ ký với Pháp Hiệp định sơ bộ vào ngày 6 tháng 3 năm 1946.

 Sau đó, Quốc hội đã cử một đoàn đại biểu gồm 10 người do Phó Trưởng ban thường trực Quốc hội Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Pháp để làm cho nhân dân Pháp hiểu rõ hơn cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc của Việt Nam.

Trong thời kỳ này Ban thường vụ Quốc hội đã có mối quan hệ và cử các đoàn đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa anh em; cùng Chính phủ thống nhất cử Đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự Hội nghị Geveva, có ý kiến chỉ đạo thích hợp và cùng Chính phủ quyết định việc ký Hiệp định đình chiến, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Sau ngày hòa bình lập lại, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã tập trung vào việc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève, phát triển và củng cố tình hữu nghị, đoàn kết giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.

Đánh giá về công lao to lớn của Quốc hội khóa I, tại kỳ họp thứ 12, kỳ họp cuối cùng của Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quốc hội ta đã hết lòng vì dân vì nước, đã làm trọn một cách vẻ vang nhiệm vụ của những người đại biểu của nhân dân”.

1.2 Thời kỳ 1960-1980

Bối cảnh

Trong giai đoạn này, Nghị viện nhân dân được đổi tên là Quốc hội và được tổ chức theo các quy định của Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Quốc hội ngày 14 tháng 7 năm 1960. Đây là thời kỳ Quốc hội hoạt động trong điều kiện miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội làm hậu phương lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ ở miền Nam với 5 khóa hoạt động, trong đó có 4 khóa Quốc hội phải hoạt động trong điều kiện đất nước bị chia cắt, đó là: khóa II (1960-1964); khóa III (1964-1971); khóa IV (1971-1975), khóa V (1975-1976). Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30 tháng 4 năm 1975), kể từ khóa VI (1976-1981), Quốc hội trở thành Quốc hội chung của cả nước Việt Nam thống nhất.

Kết quả hoạt động

a. Quốc hội khóa II (1960-1964)

- Bầu cử ngày 8 tháng 5 năm 1960

- Tổng số đại biểu: 453, trong đó có 91 đại biểu miền Nam lưu nhiệm

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân:                 13,8%                  

+ Nông dân:                   12,9%                  

+ Trí thức:                      28,4%

+ Đảng viên:                   82,3%

+ Cán bộ chính trị:          35,2%

+ Dân tộc thiểu số:         15,4%

+ Quân đội:                    4,5%

+ Phụ nữ:                       13,5%

+ Thanh niên:                 8,8%

+ Tôn giáo:                     3,5%

Đây là khóa Quốc hội đầu tiên hoạt động theo những nguyên tắc của Hiến pháp 1959, là khóa đầu tiên cả nước thực hiện kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế quốc dân theo đường lối do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 6 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, 14 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Quốc hội thành lập Ủy ban dự án pháp luật và Ủy ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ khóa II, ngoài hai Uỷ ban mà Quốc hội đã thành lập theo quy định của Hiến pháp 1959, Quốc hội đã thành lập thêm Uỷ ban Thống nhất (1963). Trong 4 năm hoạt động, với 8 kỳ họp, Quốc hội khóa II đã thay mặt nhân dân quyết định nhiều vấn đề quan trọng của đất nước trên cương vị là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước.

Quốc hội khóa II đã thông qua sáu đạo luật quan trọng về tổ chức của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương; sửa đổi bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự cho phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh mới. Đó là: Luật Tổ chức Quốc hội (1960); Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ (1960); Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (1960); Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (1960); Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp (1962); Luật sửa đổi bổ sung Luật nghĩa vụ quân sự (1962).

Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành 9 pháp lệnh như Pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp; Pháp lệnh quy định cụ thể về tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Pháp lệnh quy định chế độ phục vụ của sĩ quan công an nhân dân vũ trang; Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác phòng cháy và chữa cháy…

Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc động viên sức người, sức của để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Quốc hội đã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) – cương lĩnh hành động của toàn dân nhằm thực hiện nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa và bước đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; thông qua kế hoạch hàng năm, xét duyệt và phê chuẩn dự toán, quyết toán ngân sách hàng năm của Nhà nước; phê chuẩn việc thành lập các tổ chức và cơ quan nhà nước, bổ nhiệm các cán bộ cấp cao của nhà nước, phê chuẩn việc khen thưởng và đã tích cực giải quyết các đơn thư, khiếu tố của nhân dân, ân xá những phạm nhân đã cải tạo tốt.

Đất nước Việt Nam là một khối, Bắc – Nam thống nhất không thể chia cắt. Vì thế, Quốc hội đã tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động nhằm đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước. Thời kỳ này, hoạt động đối ngoại của Quốc hội ngày càng phong phú trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa. Quốc hội đã không ngừng nêu cao nghĩa vụ quốc tế của nhà nước và nhân dân, tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, đoàn kết với các nước dân tộc chủ nghĩa, kiên trì ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ la tinh vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Bốn năm hoạt động của Quốc hội khóa II là một chặng đường lịch sử phát triển mới của đất nước nhằm đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà. Ghi nhận những kết quả to lớn mà Quốc hội đã đạt được trong những năm 1960-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Quốc hội khóa II là “Quốc hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

 b. Quốc hội khóa III (1964 - 1971)

- Bầu cử ngày 26-4-1964

- Tổng số đại biểu: 453, trong đó có 87 đại biểu lưu nhiệm

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân:                 12,4%                  

+ Nông dân:                   24,5%                  

+ Trí thức:                      26,8%

+ Đảng viên:                   80,6%

+ Cán bộ chính trị:          19,2%

+ Dân tộc thiểu số:         16,6%

+ Quân đội:                    5,0%

+ Phụ nữ:                      16,7%

+ Thanh niên:                 15,6%

+ Tôn giáo:                     3,2%

Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 6 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, 15 ủy viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết và Ban Thư ký gồm 4 vị. Quốc hội thành lập 5 ủy ban: Uỷ ban Dự án pháp luật, Uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách, Uỷ ban Dân tộc, Uỷ ban Thống nhất và Uỷ ban Văn hóa - xã hội.

Quốc hội khoá III hoạt động trong thời chiến, nên nhiệm kỳ của Quốc hội đã kéo dài đến quý I năm 1971. Trong 7 năm, Quốc hội đã họp 7 kỳ và Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã họp 95 phiên, nhưng đã thông qua rất nhiều nghị quyết quan trọng về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, về tổ chức hành chính, về nhân sự phục vụ sự nghiệp xây dựng miền Bắc, phục vụ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân. Lúc này, mọi yêu cầu nhiệm vụ về quân sự, kinh tế, chính trị…đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời. Trước tình hình khẩn trương đó, tại phiên họp ngày 10 tháng 4 năm 1965, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội thêm một số quyền hạn trong trường hợp Quốc hội không có điều kiện thuận tiện để họp. Theo đó, mối quan hệ giữa Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội với Chính phủ ngày càng chặt chẽ và được duy trì thường xuyên. Những chủ trương, chính sách, những nhiệm vụ công tác lớn về chống Mỹ, cứu nước, về chính sách kinh tế thời chiến, về đấu tranh thống nhất, về đối ngoại đều được Chính phủ kịp thời báo cáo trước Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội và được Quốc hội phê chuẩn nhanh chóng. Sự thống nhất giữa Quốc hội và Chính phủ là điều kiện quan trọng bảo đảm động viên kịp thời yêu cầu của chiến tranh. 

Trong hoàn cảnh chiến tranh diễn ra ác liệt, Quốc hội và Chính phủ đã động viên quân và dân cả nước đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc, hết lòng chi viện kịp thời và ngày càng lớn cho miền Nam đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ; tích cực làm nghĩa vụ quốc tế đối với cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào anh em.

Trong giai đoạn này, quan hệ giữa Quốc hội Việt Nam với Quốc hội các nước trên thế giới ngày càng được mở rộng nhằm tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đánh giá về công lao và sự đóng góp của Quốc hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Chủ tịch Tôn Đức Thắng nêu rõ: Quốc hội khóa III là Quốc hội đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và bảo đảm cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

c.Quốc hội khóa VI (1971 - 1975)

- Bầu cử ngày: 11 tháng 4 năm 1971

- Tổng số đại biểu: 420

Cơ cấu thành phần Quốc hội như sau:

+ Công nhân        :         22,3%                  

+ Nông dân           :         21,4%                  

+ Trí thức             :         17,1%

+ Đảng viên          :         75,4%

+ Cán bộ chính trị :         24,05%

+ Dân tộc thiểu số :         17,3%

+ Quân đội            :         6,4%

+ Phụ nữ               :         29,7%

+ Thanh niên        :         19,5%

Ủy ban thường vụ Quốc hội trong nhiệm kỳ này do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 5 Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký, 17 Uỷ viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết và Ban Thư ký gồm 6 thành viên.

Quốc hội thành lập 6 ủy ban: Uỷ ban Dự án pháp luật, Uỷ ban Kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban Thống nhất, Uỷ ban Dân tộc, Uỷ ban Văn hóa - xã hội. Ngày 5 tháng 2 năm 1974, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội đã thành lập thêm Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội.

Trong 4 năm hoạt động, Quốc hội họp 5 kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội họp 53 phiên và đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu của các kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế; phê chuẩn các dự toán và quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm, góp phần quan trọng vào việc củng cố và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sức mạnh để đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ, tiêu biểu là trận “Điện Biên Phủ trên không” vào tháng 12 năm 1972 buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán và ký kết Hiệp định Pari về Việt Nam. Quốc hội hoan nghênh và thông qua Nghị quyết về việc ký kết Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1973). Hoạt động của Quốc hội đã góp phần quan trọng trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta nhằm đánh đổ chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất Tổ quốc.

Kết quả hoạt động của Quốc hội khóa IV đã góp phần tạo thêm sức mạnh cho nhân dân ta thực hiện chiến lược tiến công, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn vào mùa xuân năm 1975, đánh đổ chế độ thực dân mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và thống nhất Tổ quốc.

d.Quốc hội khóa V (1975 - 1976)

- Bầu cử ngày 6 tháng 4 năm 1975

- Tổng số đại biểu: 424

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân                  :         22%           

+ Nông dân                    :         21%           

+ Trí thức                       :         22%

+ Đảng viên                    :         73%

+ Cán bộ chính trị           :         23%

+ Dân tộc thiểu số           :         16,7%

+ Quân đội                     :         6,5%

+ Phụ nữ                         :         32%

+ Thanh niên                  :         33%

Uỷ ban thường vụ Quốc hội nhiệm kỳ này do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 6 Phó Chủ tịch, 11 Uỷ viên chính thức và 3 Uỷ viên dự khuyết.

Quốc hội thành lập 6 ủy ban: Uỷ ban Dự án pháp luật, Uỷ ban Kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban Dân tộc, Uỷ ban Văn hóa - xã hội, Uỷ ban Thống nhất và Uỷ ban đối ngoại.

Quốc hội khóa V ra đời trong bối cảnh lịch sử miền Nam vừa mới giải phóng (30 tháng 4 năm 1975) và hoạt động chưa đầy 2 năm (1975-1976). Quốc hội chỉ họp 2 kỳ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội họp 10 phiên, nhưng đã quyết định được nhiều vấn đề quan trọng của đất nước.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã góp phần quan trọng trong việc thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã long trọng tuyên bố: “Hơn một trăm năm nay, đây là lần đầu tiên trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta không còn bóng một tên xâm lược, dân tộc ta hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình. Từ đây nhân dân ta đời đời sống trong độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và có tính thời đại của dân tộc Việt Nam ta”…

Quốc hội đã nghiên cứu, thảo luận đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1975 và quyết định kế hoạch nhà nước năm 1976, năm thứ nhất của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, mở đầu thời kỳ xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Quốc hội đã phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 1975 và dự toán ngân sách nhà nước năm 1976; đồng thời quyết định cải tiến hệ thống các đơn vị hành chính, phê chuẩn việc giải thể cấp khu và hợp nhất một số tỉnh nhỏ thành tỉnh lớn theo chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Để thực hiện nhiệm vụ thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, trên cơ sở sự nhất trí giữa Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với các cơ quan có trách nhiệm ở miền Nam, ngày 27 tháng 10-1975 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã họp phiên họp đặc biệt để thảo luận, thông qua Đề án thực hiện thống nhất nước nhà về mặt nhà nước, cử đoàn đại biểu miền Bắc tham dự Hội nghị Hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Tại Hội nghị, 22 đại biểu của đoàn miền Nam và 14 đại biểu của đoàn miền Bắc đã trình bày quan điểm và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân đối với yêu cầu thống nhất nước nhà. Hội nghị đã khẳng định: “Cần hoàn thành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là sự thống nhất trọn vẹn vững chắc nhất”.

Tại kỳ họp thứ hai (tháng 12 năm 1975), Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội Trường Chinh đã vui mừng báo cáo kết quả của Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Quốc hội đã sôi nổi thảo luận và nhất trí thông qua Nghị quyết phê chuẩn kết quả của Hội nghị Hiệp thương, mở ra thời kỳ phát triển mới của nước Việt Nam thống nhất.

Thành công của Hội nghị Hiệp thương và chính trị thống nhất Tổ quốc và kết quả của Hội nghị được Quốc hội phê chuẩn đã tạo nên một luồng không khí phấn khởi mới, động viên toàn dân hăng hái thi đua hoàn thành kế hoạch kinh tế nhà nước và tích cực chuẩn vị để thực hiện kế hoạch bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất.

e.Quốc hội khóa VI (1976 - 1981)

- Bầu cử ngày 25-4-1976

- Tổng số đại biểu: 492

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân                  :         16,2%                  

+ Nông dân                    :         20,3%                  

+ Trí thức                       :         19,9%

+ Đảng viên                    :         81,4%

+ Cán bộ chính trị           :         28,6%

+ Dân tộc thiểu số           :         13,6%

+ Quân đội                     :         10,9%

+ Phụ nữ                         :         26%

+ Thanh niên                  :         11,7%


Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 7 Phó Chủ tịch, Tổng thư ký, 13 Uỷ viên chính thức, 2 Uỷ viên dự khuyết.

Quốc hội thành lập 6 uỷ ban: Uỷ ban kế hoạch và ngân sách; Uỷ ban dự án pháp luật; Uỷ ban dân tộc; Uỷ ban văn hóa và giáo dục, Uỷ ban y tế và xã hội; Uỷ ban đối ngoại.

Để thể hiện tính liên tục của Nhà nước qua các giai đoạn đấu tranh cách mạng, Quốc hội đã quy định khóa Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất là Quốc hội khóa VI. Quốc hội quyết định đổi tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quy định Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Quốc ca là bài Tiến quân ca và chính thức đặt tên cho thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh; quy định Thủ đô của nước Việt Nam thống nhất là Hà Nội. Đồng thời, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong nhiệm kỳ 5 năm (1976-1981), Quốc hội khóa VI đã họp 7 kỳ; Ủy ban thường vụ Quốc hội và các Ủy ban thường trực của Quốc hội cũng đã làm việc thường xuyên để nghiên cứu, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, như: thông qua nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980); phê chuẩn việc phân vạch lại địa giới thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành khác...

Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 7 (tháng 12 năm 1980), Quốc hội đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng là thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Hiến pháp 1980. Đây là bản Hiến pháp thứ ba được Quốc hội thông qua để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Hiến pháp 1980 đã khẳng định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ...”. Sự ra đời của Hiến pháp mới là một sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước, là vũ khí sắc bén để toàn dân, toàn quân tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

Với trách nhiệm của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành 5 pháp lệnh: Pháp lệnh về việc xin ân giảm án tử hình và xét duyệt án tử hình; Pháp lệnh về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Pháp lệnh sửa đổi và bổ sung một số điểm về thuế công thương nghiệp và thuế sát sinh; Pháp lệnh sửa đổi và bổ sung một số điều khoản của Pháp lệnh năm 1961 quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp và Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội khóa VI cũng có những chuyển biến tích cực theo hướng mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế. Điển hình là Quốc hội đã gia nhập Liên minh Nghị viện Thế giới và có những đóng góp tích cực tại các diễn đàn của tổ chức liên nghị viện này.

1.3 Thời kỳ 1980-1992

Bối cảnh

Giai đoạn 1980-1992 là thời kỳ cả nước đang tích cực đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với việc đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa và công nghiệp hóa đất nước. Hiến pháp năm 1980 đã có những quy định mới về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước vào thời kỳ này. Đây là thời kỳ Quốc hội được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức Quốc hội và Hội đồng Nhà nước năm 1981.

Kết quả hoạt động

a. Quốc hội khóa VII (1981 - 1987)

- Bầu cử ngày 26-4-1981.

- Tổng số đại biểu: 496.

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân                  :         20,16%      

+ Nông dân                    :         18,64%      

+ Trí thức                       :         22,17%

+ Đảng viên                    :         84,12%

+ Cán bộ chính trị           :         24,39%

+ Dân tộc thiểu số           :         14,91%

+ Quân đội                     :         9,87%

+ Phụ nữ                         :         21,776%

+ Thanh niên                  :         18,14%

Quốc hội khóa VII đã bầu Hội đồng Nhà nước do đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước. Quốc hội đã bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch Quốc hội và 9 Phó Chủ tịch Quốc hội; bầu Hội đồng quốc phòng; bầu Hội đồng dân tộc và 7 ủy ban: Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế - kế hoạch và ngân sách, Uỷ ban văn hóa và giáo dục, Uỷ ban khoa học và kỹ thuật, Uỷ ban y tế và xã hội, Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Uỷ ban đối ngoại.

Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa VII, với 12 kỳ họp, Quốc hội đã ban hành được 10 đạo luật và 35 nghị quyết; Hội đồng Nhà nước ban hành được 15 pháp lệnh. Ngoài các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước được ban hành mới theo Hiến pháp 1980, đáng chú ý là lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành Bộ luật hình sự (1985) gồm 280 điều quy định về tội phạm và hình phạt; Luật hôn nhân gia đình (1986) gồm 57 điều trên cơ sở kế thừa và phát triển Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, thể hiện bước phát triển đáng kể trong hoạt động lập pháp của Quốc hội.

Quốc hội đã triển khai thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, như: thành lập các cơ quan nhà nước ở Trung ương; thông qua các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; quyết định các vấn đề về việc cử và miễn nhiệm một số thành viên Hội đồng Bộ trưởng...

Hoạt động giám sát cũng được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước coi trọng, tập trung về các vấn đề quản lý kinh tế - xã hội, việc thi hành Hiến pháp, pháp luật nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hoạt động chất vấn tại kỳ họp đã có bước cải tiến với việc tại kỳ họp thứ 10, các đại biểu Quốc hội đã tập trung chất vấn vào việc đánh giá những sai lầm, khuyết điểm về việc thực hiện chính sách giá - lương - tiền; đồng thời đề ra những biện pháp khắc phục.

Ý thức sâu sắc về trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ hòa bình của các dân tộc, trong hoạt động đối ngoại, Quốc hội luôn tuân thủ nguyên tắc nhất quán, ủng hộ những sáng kiến hòa bình, bảo đảm an ninh chung của nhân loại.

b. Quốc hội khóa VIII (1987 - 1992)

- Bầu cử ngày 19 tháng 4 năm 1987

- Tổng số đại biểu: 496

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Công nhân                  :         20%           

+ Nông dân                    :         21%           

+ Trí thức                       :         24,9%

+ Đảng viên                    :         93%

+ Cán bộ chính trị           :         20,2%

+ Dân tộc thiểu số           :         14%

+ Quân đội                     :         9,9%

+ Phụ nữ                         :         18%

+ Thanh niên                  :         11,2%

Quốc hội khóa VIII là Quốc hội của giai đoạn khởi đầu sự nghiệp Đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đề ra nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ quốc tế, đưa đất nước sớm ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vững bước tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.

Tại kỳ họp thứ nhất, từ ngày 17 đến 22 tháng 6 năm 1987, Quốc hội đã bầu đồng chí Lê Quang Đạo làm Chủ tịch Quốc hội, 5 Phó Chủ tịch Quốc hội; thành lập Hội đồng quốc phòng, Hội đồng dân tộc và 7 uỷ ban: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách; Uỷ ban văn hóa và giáo dục; Uỷ ban khoa học và kỹ thuật; Uỷ ban y tế và xã hội; Uỷ ban thanh niên, thiếu niên và nhi đồng và Uỷ ban đối ngoại.

Để đáp ứng yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật, trong nhiệm kỳ 5 năm với 11 kỳ họp, Quốc hội đã thông qua 2 bộ luật, 25 đạo luật và Hội đồng Nhà nước đã ban hành 39 pháp lệnh. Đáng chú ý là nhiều đạo luật quan trọng thể chế hóa chính sách kinh tế mới lần đầu tiên đã được ban hành, như Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987), mở đường cho việc đẩy mạnh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật doanh nghiệp tư nhân (1990) và Luật công ty (1990) là những đạo luật quan trọng thể chế hóa đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. Lần đầu tiên các luật này thừa nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân. Quốc hội còn ban hành các luật về thuế như: Luật thuế doanh thu, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế lợi tức, Bộ luật hàng hải, Luật hàng không dân dụng. Hội đồng Nhà nước đã ban hành hàng loạt pháp lệnh điều chỉnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội.

Tại kỳ họp thứ 5, tháng 6 năm 1989, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc thành lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp gồm 27 thành viên do đồng chí Võ Chí Công làm Chủ tịch, để tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1980 một cách cơ bản và toàn diện, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới. Hiến pháp mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 11 năm 1992. Kế thừa và phát triển các bản hiến pháp trước đây, ngoài việc thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tạo cơ sở pháp lý đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới.

Trong việc thực hiện chức năng quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, Quốc hội, Hội đồng Nhà ước, Hội đồng dân tộc, các ủy ban thường trực của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng, quan tâm đến những vấn đề nóng bỏng, cấp bách về kinh tế- xã hội và thi hành pháp luật, nhằm nâng cao vai trò của Quốc hội, từng bước vươn lên thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân. Trong nhiệm kỳ, ngoài việc thảo luận, ra nghị quyết về các nhiệm vụ kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước, Quốc hội đã xem xét, quyết định sáp nhập các bộ và thay đổi, bổ sung nhân sự cấp cao của nhà nước. So với các nhiệm kỳ trước, cách bàn bạc và biểu quyết của Quốc hội khóa VIII được thực hiện dân chủ và cởi mở hơn, thể hiện được trách nhiệm của Quốc hội và đại biểu Quốc hội với cử tri cả nước.

1.4 Thời kỳ từ năm 1992 đến nay

Bối cảnh lịch sử

Kể từ năm 1986, Đảng ta chủ trương tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, trong đó, tập trung đổi mới kinh tế, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong điều kiện phát triển mới của đất nước, Hiến pháp mới được ban hành vào năm 1992 thay thế cho Hiến pháp 1980. Đến năm 2001, một số quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội đã được sửa đổi, bổ sung nhằm xác định rõ hơn địa vị pháp lý của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua  25 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bản Hiến pháp 2013 được ban hành với một số điểm đổi mới về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội.

Kết quả hoạt động

i) Quốc hội nhiệm kỳ khóa IX (1992 – 1997)

- Bầu cử ngày 19 tháng 7 năm 1992

- Tổng số đại biểu: 395

Cơ cấu thành phần của Quốc hội

+ Nông nghiệp                        :         14,68%      

+ Công nghiệp                         :         4,8%          

+ Luật                                      :         3,8%

+ Giáo dục                              :         6,1%

+ Văn học nghệ thuật              :         5,08%

+ Cán bộ chính trị                   :         10,94%

+ Đảng viên                                      :         91,6%

+ Dân tộc thiểu số                            :         16,79%

+ Quản lý Nhà nước                :         31,3%

+ Quân đội                              :         6,78%

+ Phụ nữ                                  :         18,84%

Quốc hội khóa IX là nhiệm kỳ Quốc hội hoạt động theo tinh thần của Hiến pháp 1992, trong đó Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIIcủa Đảng đề ra. Hoạt động của Quốc hội đã góp phầnđẩy mạnh sự nghiệp đổi mới sâu sắc và toàn diện, phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

Quốc hội IX đã bầu đồng chí Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, 3 Phó Chủ tịch, 9 Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh do đồng chí Lê Đức Anh làm Chủ tịch. Ngoài ra, Quốc hội còn thành lập Hội đồng dân tộc và 7 Uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế và ngân sách; Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường, Uỷ ban quốc phòng và an ninh và Uỷ ban đối ngoại. Trong đó, Uỷ ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội lần đầu tiên được thành lập.

Trong nhiệm kỳ khóa IX, qua 11 kỳ họp, Quốc hội đã tập trung thời gian, trí tuệ để đẩy mạnh hoạt động lập pháp với kết quả là 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh đã được ban hành. Quốc hội đã ưu tiên ban hành các văn bản cần thiết nhằm thiết lập hệ thống chính sách nhất quán, tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; góp phần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, trong đó có việc đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất, huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tăng tích lũy để tạo vốn đầu tư phát triển.Nhiều đạo luật tạo cơ sở pháp lý hình thành môi trường ổn định và thuận lợi cho sự phát triển của các thành phần kinh tế đã được Quốc hội khóa IX ban hành, như: Luật đất đai, Luật doanh nghiệp nhà nước, Luật hợp tác xã, Luật phá sản doanh nghiệp, Luật công ty (sửa đổi), Luật doanh nghiệp tư nhân (sửa đổi), Luật khuyến khích đầu tư trong nước, các luật về thuế…Cùng với các văn bản pháp luật về kinh tế, Quốc hội đã quan tâm ban hành các luật, pháp lệnh về đổi mới hệ thống chính trị nhằm góp phần thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Quốc hội khóa IX đã xem xét và thông qua Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Tòa án Nhân dân, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban nhân dân (sửa đổi)… Đây là những đạo luật quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước phù hợp với các quy định của Hiến pháp 1992. Ngoài ra, Quốc hội còn chú ý xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật thể chế hóa các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, bảo đảm trật tự, kỷ cương, giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh như ban hành hai bộ luật lớn: Bộ luật lao động (1994), Bộ luật dân sự (1995), Nghị quyết về việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu…

Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa IX cũng đã ban hành nhiều pháp lệnh, trong đó đáng chú ý là Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” và Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng.

Quốc hội đã có nhiều quyết sách quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước, như hàng năm, Quốc hội xem xét và thông qua các nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước; phân bổ ngân sách nhà nước; các vấn đề cơ bản về đối nội và đối ngoại… Đáng chú ý là lần đầu tiên sau 10 năm tiến hành đổi mới, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm (1996-2000), thể hiện vai trò và trách nhiệm của Quốc hội trước định hướng phát triển lâu dài của đất nước. Quốc hội cũng đã quyết định việc miễn nhiệm, bầu và phê chuẩn việc bổ nhiệm một số nhân sự cấp cao của nhà nước; sáp nhập một số bộ, ngành; việc chia tách một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Công tác giám sát của Quốc hội cũng đã có những đổi mới nhất định như tiến hành nghe các báo cáo hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Trung ương; cử các đoàn đi kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương. Chất vấn và trả lời chất vấn được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của đại biểu Quốc hội, của Chính phủ và các cơ quan hữu quan trước nhân dân. Đặc biệt là từ năm 1994 đến nay, các phiên chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội đã được phát thanh và truyền hình trực tiếp, tạo không khí cởi mở, đối thoại giữa người hỏi và người trả lời, được nhân dân quan tâm theo dõi và hoan nghênh.

Quốc hội đã chú trọng đến công tác dân nguyện, tiếp dân và giải quyết các đơn thư của nhân dân. Nhiều đoàn công tác của Quốc hội đã trực tiếp đến các địa phương, cơ sở để đôn đốc, xem xét việc giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội giai đoạn này cũng có nhiều đổi mới. Các cơ quan của Quốc hội đã triển khai hoạt động đối ngoại một cách chủ động, tích cực, thực hiện có kết quả chính sách rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, góp phần quan trọng thúc đẩy việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại Việt Nam "muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".

Kết thúc nhiệm kỳ, khi đánh giá về hiệu quả hoạt động của Quốc hội khóa IX, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: cùng với toàn Đảng, toàn dân, các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Quốc hội đã không ngừng phấn đấu, góp phần quan trọng vào những thành tựu đạt được sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng và 10 năm đổi mới của đất nước ta.

ii) Quốc hội nhiệm kỳ khóa X (1997 – 2002)

- Bầu cử ngày 20 tháng 7 năm 1997

- Tổng số đại biểu: 450

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Phụ nữ                                           :         26,2%                  

+ Dân tộc thiểu số                                      :         17,33%      

+ Đại biểu khoá IXtái cử                            :         27,34%

+ Ngoài Đảng                                     :         15%

+ Đại biểu trẻ (dưới 40 tuổi)             :         18,6%

+ Các lực lượngvũ trang nhân dân    :         12,2%

+ Mặt trận Tổ quốc vàcác tổ chức đoàn thể:        14%

+ Tôn giáo                                         :         0,17%

+ Giáo dục                                        :         4,88%

+ Y tế                                       :         4%

+ Công nghiệp                                   :         4,66%

+ Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản:    3,77%

Quốc hội khóa X được bầu cử và đi vào hoạt động đúng vào thời điểm công cuộc đổi mới sau 10 năm đã thu được những thành tựu to lớn. Kế thừa và phát huy những kết quả đã đạt được của Quốc hội các khóa trước, Quốc hội khóa X đã tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII và lần thứ IX của Đảng về đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm 14 thành viên do đồng chí Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch, 5 Phó Chủ tịch và 8 ủy viên. Tại kỳ họp thứ 9 từ ngày 22 tháng 5 đến ngày 29 tháng 6 năm 2001, Quốc hội đã tín nhiệm bầu đồng chí Nguyễn Văn An làm Chủ tịch Quốc hội thay đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Quốc hội đã thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; thành lập Hội đồng dân tộc và 7 Uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế và ngân sách; Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban quốc phòng và an ninh,Uỷ ban đối ngoại.

Trong nhiệm kỳ 5 năm (1997-2002) qua 11 kỳ họp và 50 phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội khóa X đã tập trung công sức, trí tuệ và thời gian để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác lập pháp, đẩy mạnh công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; tính dân chủ trong hoạt động ngày càng được phát huy, tính hình thức ngày càng giảm.

Về hoạt động lập pháp:

Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã ban hành được 1 bộ luật, 31 luật; Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành được 39 pháp lệnh. Các văn bản luật và pháp lệnh được ban hành đã quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vấn đề bức xúc của cuộc sống và công cuộc phát triển đất nước. Đối tượng điều chỉnh của các văn bản này liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Nhiều văn bản pháp luật đã đáp ứng đúng đòi hỏi của thực tiễn nên nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả.

Điểm nổi bật là tại kỳ họp thứ 10 từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 25 tháng 12 năm 2001, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992, nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IX (năm 2001). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Cụ thể là ở Điều 84 của Hiến pháp 1992 đã được bổ sung quy định: Quốc hội phân bổ ngân sách Trung ương còn việc phân bổ ngân sách địa phương thì được giao cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; về quyền của Quốc hội phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký.

Vai trò của Quốc hội được tăng cường trong việc xem xét và quyết định các vấn đề nhân sự cấp cao. Trước năm 2001, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đều giao cho cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Điều khoản sửa đổi của Hiến pháp 1992 đã bãi bỏ thẩm quyền này của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm Quốc hội là chủ thể duy nhất có quyền quyết định nhân sự cấp cao của nhà nước.

Quốc hội đã xem xét và ban hành mới các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Đó là, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Tòa án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nhằm cụ thể hóa các quy định mới của Hiến pháp và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động các các cơ quan này. Quốc hội cũng đã ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã dành sự ưu tiên cho việc xây dựng và ban hành các luật, pháp lệnh về lĩnh vực kinh tế; trong đó chú trọng các vấn đề về doanh nghiệp, chính sách đầu tư, tín dụng, ngân hàng, tiếp tục cải cách chính sách thuế, chống tham nhũng, lãng phí, hội nhập khu vực và thế giới... như Luật doanh nghiệp, Luật hải quan, Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật kinh doanh bảo hiểm, sửa đổi các Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Pháp lệnh hống tham nhũng, Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, một số luật, pháp lệnh khác và một số nghị quyết có quy phạm pháp luật. Các văn bản pháp luật này đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế nhằm phát huy tối đa nguồn lực trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.

Bên cạnh việc ưu tiên thông qua luật, pháp lệnh để phát triển kinh tế, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quan tâm đến việc thông qua các luật, pháp lệnh về các lĩnh vực xã hội. Luật phòng, chống ma tuý là cơ sở pháp lý quan trọng để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn xã hội nguy hại này. Việc ban hành Pháp lệnh người cao tuổi và Pháp lệnh người tàn tật thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với các đối tượng đã có nhiều đóng góp cho xã hội, nay mất sức lao động hoặc những người bị khuyết tật, tạo điều kiện cho họ vươn lên ổn định cuộc sống riêng và tiếp tục đóng góp cho xã hội.

Giữ vững quan điểm coi trọng nhân tố con người, coi giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu và tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hoạt động giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát triển kinh tế đi đôi với việc bảo vệ môi trường, giữ gìn các giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh kịp thời các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường như: Luật giáo dục, Luật khoa học và công nghệ, Luật tài nguyên nước, Luật di sản văn hoá, Pháp lệnh chất lượng hàng hoá, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Pháp lệnh quảng cáo, Nghị quyết về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, Nghị quyết về thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở...

Nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, giữ vững an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành một số luật, pháp lệnh quan trọng như Bộ luật hình sự (sửa đổi), Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi), Luật khiếu nại, tố cáo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng hình sự, Luật giao thông đường bộ, Luật sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam, Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh luật sư, Nghị quyết về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1-7-1991, Nghị quyết về việc ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở?

Điều đáng chú ý là quy trình xây dựng pháp luật đã được quan tâm cải tiến. Cụ thể là vai trò và trách nhiệm của các chủ thể trong quy trình xây dựng pháp luật được nâng cao. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về các dự án luật, pháp lệnh được tiếp tục coi trọng và có những đổi mới đáng kể nhằm phát huy trí tuệ của các tầng lớp nhân dân cả nước. Các đợt lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật ngày càng có hiệu quả thiết thực và đã trở thành những cuộc sinh hoạt chính trị sôi nổi, rộng khắp trong cả nước. Sự chuẩn bị và phối hợp giữa cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra đã có bước tiến bộ. Việc xem xét và thông qua dự án luật tại kỳ họp Quốc hội đã có cải tiến, góp phần nâng cao chất lượng và đẩy nhanh tiến độ của việc xem xét và thông qua dự án luật.

- Về việc ban hành quyết định về các vấn đề quan trọng của đất nước

Cùng với hoạt động lập pháp, Quốc hội ngày càng chú trọng và chủ động hơn trong việc xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước: quyết định các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình, mục tiêu quốc gia, tổ chức bộ máy và nhân sự của các cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, các vấn đề về bảo đảm an ninh - quốc phòng. Đặc biệt, Quốc hội đã xem xét kết quả thực hiện Nghị quyết về kế hoạch 5 năm (1996-2000) và thông qua Nghị quyết về kế hoạch 5 năm tiếp theo (2001-2005); thông qua Nghị quyết về tiêu chuẩn các công trình quan trọngquốc gia trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã thảo luận và quyết định thực hiện 3 dự án quan trọng, đó là: Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Dự án khí - điện - đạm ở Bà Rịa - Vũng Tàu và Dự án Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất. Quốc hội đã dành công sức, thận trọng xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự án Nhà máy thuỷ điện Sơn La - một công trình phức tạp và lớn nhất nước ta, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng cơ sở vất chất phục vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong thời kỳ mới. Quốc hội cũng đã nghe báo cáo và cho ý kiến về dự án đường Hồ Chí Minh để Chính phủ có cơ sở tiếp tục chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, quyết định.

Quốc hội đã xem xét và thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn “Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” tại kỳ họp thứ 7 (tháng 6 năm 2000); Nghị quyết về việc phê chuẩn “Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại song phương” tại kỳ họp thứ 10 (tháng 11 năm 2001).

Về hoạt động giám sát

Hoạt động giám sát của Quốc hội khóa X cũng được triển khai tích cực, có sự đổi mới cả về nội dung và hình thức giám sát. Quốc hội đã tập trung giám sát việc thi hành Hiến pháp, pháp luật; hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những nhiệm vụ quan trọng về kinh tế, ngân sách nhà nước, về dân tộc, miền núi, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; vấn đề giao lưu kinh tế qua biên giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), viện trợ phát triển chính thức (ODA); việc thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Chương trình 135, vấn đề cử tuyển và chính sách đào tạo, sử dụng đối với con em đồng bào các dân tộc thiểu số; hoạt động điều tra, truy tố, xét xử… Hoạt động giám sát tại các kỳ họp đã được đổi mới, theo đó, nội dung giám sát ngày càng phong phú, được thảo luận dân chủ hơn. Thời gian dành cho việc xem xét các báo cáo cũng được bố trí thỏa đáng hơn. Các phiên chất vấn đều được phát thanh, truyền hình trực tiếp.

Về hoạt động đối ngoại

Trong nhiệm kỳ này, hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được triển khai chủ động trên nhiều địa bàn, với nhiều chủ thể khác nhau nhằm củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động trên các diễn đàn nghị viện đa phương như: Tổ chức Liên minh Nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á (AIPO), Liên minh Nghị viện thế giới (IPU); Hiệp hội các Nghị viện châu Á vì hòa bình (AAPP); Liên minh Nghị viện cộng đồng Pháp ngữ (APF); Diễn đàn Nghị sĩ châu Á - Thái Bình Dương (APPF); Diễn đàn Nghị sĩ châu Á về dân số và phát triển (AFPDD).

Ngoài ra, hoạt động giao lưu giữa Quốc hội Việt Nam với cơ quan lập pháp các và các tổ chức Liên nghị viện cũng được đẩy mạnh. Tổng cộng có 129 đoàn đại biểu Quốc hội từ các nước, trong đó có 16 Chủ tịch Quốc hội đã đến thăm và làm việc với Quốc hội Việt Nam. Nhiều đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam đã đi thăm chính thức các nước, tham dự các kỳ họp thường niên của Đại hội đồng AIPO; Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã tham dựkỳ họp lần thứ 100 của Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) và Hội nghị thiên niên kỷ các vị đứng đầu cơ quan lập pháp các nước trên thế giới lần đầu tiên được tổ chức tại trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York. Đặc biệt, tại kỳ họp lần thứ 22 Đại hội đồng AIPO ở Bangkok (Thái Lan), Quốc hội Việt Nam tiếp nhận chức Chủ tịch và Tổng thư ký AIPO nhiệm kỳ 2001-2002 và đã đăng cai, tổ chức thành công kỳ họp Đại hội đồng AIPO lần thứ 23 tại Hà Nội vào tháng 9 năm 2002.

iii) Quốc hội nhiệm kỳ khóa XI (2002 – 2007)

- Bầu cử ngày 19 tháng 5 năm 2002

- Tổng số đại biểu: 498

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Trung ương                                                       : 30,92%

+ Địa phương                                                       : 69,08%

+ Dân tộc thiểu số                                                 : 17,27%

+ Phụ nữ                                                              : 27,31%

+ Đại biểu khóa X tái cử                                         : 27,11%

+ Đại biểu tự ứng cử                                             : 0,40%

+ Đại biểu trẻ tuổi (dưới 40 tuổi)                              : 11,24%

+ Đại biểu có trình độ trên đại học và trên đại học     : 93,37%

+ Đại biểu thuộc khối doanh nghiệp                          :5,02%       

+ Tôn giáo                                                              : 1,40%

Đây là nhiệm kỳ Quốc hội đầu tiên hoạt động trong thiên niên kỷ mới. Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội gồm 13 thành viên do đồng chí Nguyễn Văn An làm Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch và 9 ủy viên. Quốc hội thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; thành lập Hội đồng dân tộc và 7 uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật; Uỷ ban kinh tế và ngân sách, Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban quốc phòng và an ninh,Uỷ ban đối ngoại.

Để thực hiện tốt hơn nữa các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã quyết định thành lập 3 cơ quan chuyên môn trực thuộc, đó là: Ban công tác lập pháp, Ban công tác đại biểu và Ban dân nguyện.

Trong nhiệm kỳ này, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách đã tăng lên đáng kể. Có 120 trong số 498 đại biểu (chiếm gần 25% tổng số đại biểu Quốc hội)hoạt động chuyên trách ở các cơ quan của Quốc hội vàở 64 đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Quốc hội khóa XIdiễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới đất nước được triển khai một cách toàn diện, mạnh mẽ nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kế thừa và phát huy những kinh nghiệm và thành tựu của các khóa trước, Quốc hội đã tiếp tục đổi mới về tổ chức và hoạt động, đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc thực hiện những chức năng cơ bản của Quốc hội.

Về hoạt động lập pháp

Trong lĩnh vực lập pháp, Quốc hội đã có bước đột phá lớn. Với những đổi mới quan trọng về quy trình lập pháp, Quốc hội đã xem xét, thông qua84 luật, bộ luật, Ủy ban thường vụ Quốc hộixem xét, thông quavà 31 pháp lệnh. Chất lượng các dự án luật, pháp lệnh được thông qua đã bám sát yêu cầu của cuộc sống, xử lý tốt một số vấn đề nhạy cảm và phản ánh đầy đủ hơn thực tiễn xã hội. Nội dung các vấn đề được quy định trong các luật, bộ luật cơ bản bao quát các lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ, quốc phòng - an ninh, đối ngoại đến tổ chức bộ máy nhà nước, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đặc biệt, Quốc hội đã dành nhiều thời gian, công sức để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các đạo luật về kinh tế thuộc các lĩnh vực: doanh nghiệp, đầu tư, ngân hàng, tín dụng, thương mại, kinh doanh bất động sản, cải cách chính sách thuế..., phù hợp với điều kiện và mục tiêu của đất nước, yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Nhiều bộ luật lớn quy định về trình tự thủ tục đã được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự; nhiều vấn đề mới và khó như: cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, chứng khoán, chuyển giao công nghệ... đã được Quốc hội ban hành các đạo luật để điều chỉnh.

- Về hoạt động giám sát

Hoạt động giám sát có bước đổi mới cả về nội dung và hình thức, góp phần thúc đẩy việc thực hiện pháp luật, nghị quyết của Quốc hội.Nội dung giám sátđã tập trung vào các vấn đề bức xúc được dư luận phản ánh và nhân dân quan tâm, như: đầu tư dàn trải, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; triển khai thực hiện một số công trình quan trọng quốc gia (nhà máy lọc dầu Dung Quất, Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng); giáo dục; y tế; phòng, chống tham nhũng, lãng phí; giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật v.v...

Phương thức tiến hành giám sát đã có những cải tiến nhất định, theo hướng tăng cường giám sát tối cao, xem xét báo cáo của Chính phủ kết hợp với giám sát thực tế tại địa phương, cơ sở; vừa thực hiện giám sát thường xuyên, vừa giám sát theo chuyên đề. Việc Quốc hội tiến hành giám sát tại kỳ họp đối với một số nội dung chuyên sâu, đổi mới việc chất vấn kết hợp với việc nghe báo cáo giám sát chuyên đề đã góp phần nâng cao hiệu quả giám sát tối cao, được cử tri hoan nghênh.

Kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội đã có tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế-xã hội của đất nước. Qua giám sát, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội đã đưa ra nhiều ý kiến, kiến nghị (thông qua các báo cáo thẩm tra, thuyết trình và thảo luận) đóng góp vào hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Phần lớn những kết luận, kiến nghị của cơ quan giám sát đã được các cơ quan chức năng tiếp thu trong quá trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết, cơ chế chính sách và công tác chỉ đạo điều hành của ngành, lĩnh vực. Trong các báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ hằng năm, Chính phủ đã khẳng định thành quả đạt được có phần đóng góp quan trọng từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội. Tác động của hoạt động giám sát cũng đã tạo nên chuyển biến đáng kể về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.

Về việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Việc quyết định nhữngvấn đề quan trọng của đất nước ngày càng thực chất hơn.Quốc hội khoá XI đã xem xét, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, từ tổ chức bộ máy nhà nước, nhân sự cấp cao thuộc thẩm quyền của Quốc hội; nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước cho đến chủ trương đầu tư các dự án, công trình quan trọng quốc gia; phê chuẩn Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và một số nước; phê chuẩn Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới...

Ngoài ra, với việc thông qua Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) và Luật Kiểm toán nhà nước, Quốc hội đã tạo lập cơ chế bảo đảm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng về tài chính, ngân sách.

Về hoạt động đối ngoại

Hoạt động đối ngoại tiếp tục được đẩy mạnh, góp phần phát huy vai trò, vị thế của Quốc hội Việt Nam nói riêng, đất nước Việt Nam nói chung trên trường quốc tế.

Kết quả nổi bật của các hoạt động đối ngoại song phương là đã củng cố, phát triển quan hệ với nghị viện các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, nghị viện châu Âu, nghị viện nhiều nước thuộc liên minh châu Âu, làm cho các mối quan hệ này phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; phát triển quan hệ với nghị viện các nước thuộc khu vực châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ; củng cố và từng bước đẩy mạnh quan hệ truyền thống với các nước Trung Đông Âu.

Về quan hệ đa phương, là thành viên của nhiều tổ chức liên nghị viện, Quốc hội Việt Nam không chỉ đóng góp tích cực vào hoạt động của các diễn đàn này, mà còn chủ động đề xuất các sáng kiến, đưa ra những khuyến nghị mang tính xây dựng nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả. Trong nhiệm kỳ qua, Quốc hội đã chủ trì tổ chức thành công nhiều hội nghị quan trọng tại Việt Nam như: Đại hội đồng AIPO lần thứ 23; Hội nghị đối tác Nghị viện Á-Âu (ASEP-3) lần thứ 3; Hội nghị Ban chấp hành Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ (APF); Hội nghị lần thứ 13 Diễn đàn nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương (APPF-13)... Kết quả đạt được này đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.

iv) Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007 – 2011)

- Bầu cử ngày 20 tháng 5 năm 2007

- Tổng số đại biểu: 493

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Trung ương                                                        :31,03%

+ Địa phương                                                        :68,97%

+ Dân tộc thiểu số                                                  :17,65%

+ Phụ nữ                                                               :25,76%

+ Đại biểu khóa XI tái cử                                        :27,59%

+ Đại biểu tự ứng cử                                              :0,20%

+ Đại biểu trẻ tuổi (dưới 40 tuổi)                              :13,79%

+ Đại biểu có trình độ trên đại học và đại học           :95,94%

+ Đại biểu thuộc khối doanh nghiệp                         :4,26%                  

+ Tôn giáo                                                             :2,84%

Đây là khóa Quốc hội tiếp tục đổi mới theo hướng ngày càng dân chủ, thực chất và hiệu quả. Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội kháo XII diễn ra ngay sau Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng với những nội dung hết sức quan trọng liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Với tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, trước Đảng, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận dân chủ bầu Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm 18 thành viên do đồng chí Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch, 13 ủy viên. Quốc hội thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; thành lập Hội đồng dân tộc và 9 uỷ ban của Quốc hội: Uỷ ban pháp luật,Ủy ban tư pháp, Uỷ ban kinh tế, Ủy ban tài chính và ngân sách, Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban quốc phòng và an ninh, Uỷ ban đối ngoại.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập 3 cơ quan chuyên môn trực thuộc, đó là: Ban công tác đại biểu, Ban dân nguyện và Viện nghiên cứu lập pháp.

So với nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI, số lượng các ủy ban của Quốc hội khóa XII tăng lên với việc Quốc hội thành lập mới Ủy ban tư pháp và Ủy ban tài chính và ngân sách trên cơ sở Ủy ban pháp luật và Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội khóa XI. Số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách cũng được tăng cường với 145 đại biểu, chiếm 29,41% tổng số đại biểu Quốc hội, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp xếp, bố trí cán bộ, kiện toàn bộ máy của Hội đồng dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội.

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII hoạt động 4 năm (2007-2011), trong bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa có những khó khăn thách thức.Mặc dù quỹ thời gian hoạt động ít hơn so với nhiệm kỳ khóa XI, nhưng những kết quả đạt được của Quốc hội khóa XII là đáng ghi nhận. Điểm đáng lưu ý, hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội ngày càng dân chủ, thiết thực và hiệu quả, có nhiều đổi mới. Những kết quả đó thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, nhưng rõ nét nhất là trong công tác xây dựng pháp luật, giám sát chuyên đề, chất vấn, trả lời chất vấn, quyết định nhiều vấn đến quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, công trình quan trọng quốc gia và đẩy mạnh hoạt động đối ngoại.

- Về hoạt động lập pháp

Với sự phấn đấu nỗ lực, không ngừng đổi mới, trong 4 năm, Quốc hội khóa XII đã thông qua được 68luật, 12 nghị quyết; Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua 13 pháp lệnh và 7 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật. Các văn bản pháp luật được ban hành bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản lý và điều hành kinh tế- xã hội của đất nước.

Nội dung các đạo luật điều chỉnh bao gồm hầu hết các lĩnh vực, từ quy trình, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến các vấn đề về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tổ chức bộ máy nhà nước, hành chính, dân sự, hình sự, tư pháp, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý nợ công; trưng mua, trưng dụng tài sản; thuế sử dụng đất nông nghiệp, tài nguyên, thu nhập cá nhân...Đồng thời, quan tâm sửa đổi, bổ sung kịp thời một số chế định pháp luật không còn phù hợp thuộc các lĩnh vực: ngân hàng; tín dụng; thuế; đầu tư xây dựng cơ bản; phòng, chống tham nhũng; quốc tịch; giao thông đường bộ; xuất bản; sở hữu trí tuệ,... để đáp ứng nhu cầu hội nhập, phát triển kinh tế, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Quy trình lập pháp tiếp tục được đổi mới, cải tiến theo hướng nâng cao chất lượng, tăng tính chủ động, cụ thể trong văn bản pháp luật. Một số khâu trong quy trình lập pháp đã có sự thay đổi, bảo đảm khoa học, dân chủ và chặt chẽ hơn. Việc điều chỉnh thời điểm thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và linh hoạt giao Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung khi cần thiết và báo cáo Quốc hội; giao Ủy ban thường vụ Quốc hội chủ trì chỉ đạo việc tiếp thu, chỉnh lý dự án trình Quốc hội thông qua, đã tạo điều kiện có thêm thời gian và chủ động hơn trong chuẩn bị, xây dựng và hoàn thiện văn bản. Việc quy định vấn đề lồng ghép giới trong quy trình lập pháp là một bước tiến bộ, phù hợp với xu hướng của thế giới.

Công tác thẩm tra dự án luật, pháp lệnh được tiến hành tích cực, có sự phân công rõ ràng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp. Các cơ quan của Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, khảo sát thực tế, tham khảo, lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, các chuyên gia, nhà khoa học, ý kiến của cử tri v.v…Vì vậy, các báo cáo thẩm tra bảo đảm chất lượng, thể hiện rõ chính kiến, có tính phản biện cao, có cơ sở khoa học và thực tiễn hơn. Công tác chỉnh lý, hoàn thiện văn bản trước khi trình Quốc hội thông qua được Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, thận trọng.

Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều hình thức thảo luận, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức hữu quan và cá nhân ở địa phương vào các dự án luật. Các vị đại biểu Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng văn bản ban hành.

Việc công khai dự thảo văn bản trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên các trang thông tin điện tử đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt được dự kiến những thay đổi về chính sách, pháp luật để đóng góp ý kiến xây dựng văn bản và chuẩn bị các điều kiện cho việc thực hiện sau này.

Về hoạt động giám sát

Hoạt động giám sát được tăng cường, có nhiều đổi mới về cách thức tiến hành, nhất là chất vấn và giám sát chuyên đề. Thông qua giám sát đã kịp thời phát hiện và có các kiến nghị nhằm điều chỉnh, bổ sung, phát huy tính tích cực, giảm thiểu những hệ lụy nẩy sinh từ chính sách; chấn chỉnh kịp thời các sai sót, khuyết điểm, thúc đẩy thực hiện tốt các nhiệm vụ. Nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt, Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao sáu chuyên đề và ra nghị quyết nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà Chính phủ, các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện, trong đó, có nội dung được giám sát hai lần như đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước ở các Bộ, ngành, địa phương.

Chất vấn và trả lời chất vấn tiếp tục được cải tiến mạnh mẽ theo hướng tập trung hơn, thực chất hơn, phản ánh sát thực tâm tư, nguyện vọng của cử tri và nhân dân, làm rõ thêm tình hình, nguyên nhân, chỉ ra trách nhiệm và giải pháp nhằm thúc đẩy thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nghị quyết của Quốc hội. Cách thức tiến hành chất vấn được cải tiến theo nhóm vấn đề với sự tham gia của Thủ tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ và nhiều bộ trưởng, trưởng ngành; tăng thời gian đối thoại, tạo không khí cởi mở, thẳng thắn. Sau chất vấn, các cá nhân và cơ quan có liên quan đã nghiêm túc xem xét những vấn đề đại biểu nêu lên, như rà soát quy hoạch, quản lý cấp phép sân golf; điều hành thu mua xuất khẩu gạo; xây dựng một số công trình thủy điện vừa và nhỏ; quản lý thị trường ngoại hối, thị trường vàng; chăm sóc sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công...Việc theo dõi thực hiện lời hứa của người trả lời chất vấn được thực hiện thường xuyên hơn. Thực tế cho thấy, hoạt động giám sát chuyên đề và chất vấn thời gian qua đã góp phần tích cực giải quyết những vấn đề cuộc sống đặt ra, có tác động thiết thực trong thực tế, thúc đẩy các cơ quan nhà nước khắc phục những thiếu sót, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Những điểm mới là Quốc hội đã ra nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn; xem xét báo cáo của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát giải quyết kiến nghị của cử tri. Việc làm này đã tác động tích cực đến tâm tư, tình cảm, củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, khuyến khích nhân dân tích cực tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước. Đồng thời là căn cứ để đại biểu Quốc hội tiếp tục chất vấn, làm rõ trách nhiệm của các Bộ trưởng, Trưởng ngành, nhất là những vấn đề đã hứa trước Quốc hội và cử tri.

Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội được tiến hành tích cực, chủ động trên các lĩnh vực được phân công phụ trách; có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức giám sát, có sự kết hợp giữa giám sát chuyên đề và giám sát thường xuyên; phối hợp với các cơ quan hữu quan trong hoạt động giám sát chặt chẽ hơn. Chất lượng thẩm tra các báo cáo, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo...ngày càng được nâng cao. Việc tổ chức chất vấn tại phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội và tổ chức hoạt động giải trình tại Hội đồng, Uỷ ban của Quốc hội là điểm mới trong nhiệm kỳ này, bước đầu đạt được những kết quả nhất định. Các nhận định, đánh giá trong báo cáo giám sát đã phản ánh sát thực và khách quan tình hình thực tiễn, nêu rõ những kết quả đạt được, kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc trong cơ chế, chính sách, pháp luật, những yếu kém trong quản lý, điều hành. Các đề xuất, kiến nghị trong báo cáo giám sát cụ thể, có tính khả thi và tạo được sự đồng thuận cao đã có tác dụng tích cực cho các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp cũng như trong việc hoàn thiện chính sách, pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách.

Các Đoàn đại biểu Quốc hội đã có nhiều cố gắng trong tiến hành hoạt động giám sát tại địa phương. Qua giám sát, nhiều kiến nghị có chất lượng đã được các bộ, ngành, cơ quan hữu quan ở trung ương và địa phương xem xét giải quyết. Đồng thời, đã phối hợp tốt trong việc giám sát chuyên đề theo chương trình giám sát của Quốc hội, các cơ quan của của Quốc hội. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã tích cực tham gia hoạt động giám sát, hoạt động tiếp xúc cử tri, qua đó, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của đại biểu nhân dân.

Về việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước ngày càng có chất lượng, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Trong bối cảnh có những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới tác động bất lợi đến phát triển kinh tế-xã hội, Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri; thảo luận, tranh luận thẳng thắn và đề ra những giải pháp phù hợp, góp phần làm chuyển biến tình hình, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước. Các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm; về ưu tiên kiềm chế lạm pháp, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu duy trì tăng trưởng hợp lý; về điều chỉnh mục tiêu tổng quát, một số chỉ tiêu chủ yếu (tốc độ tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước…); phát hành trái phiếu Chính phủ để tập trung xây dựng những công trình giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế…phù hợp với tình hình thực tế, đã góp phần cùng Chính phủ, các cấp, các ngành khắc phục khó khăn thách thức, đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Thực tế đã chứng minh, những điều chỉnh đó là cần thiết, đúng đắn và kịp thời, thể hiện bước tiến mới về năng lực lãnh đạo, trình độ dự báo, khả năng phản ứng chính sách và bản lĩnh vững vàng của Đảng và Nhà nước ta.

Các Nghị quyết về ngân sách ngày càng được nâng cao về chất lượng, góp phần giữ vững các cân đối vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước một cách tích cực; đẩy mạnh sự phân công, phân cấp, tạo sự chuyển biến quan trọng, chủ động trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước. Đồng thời, bảo đảm những điều kiện vật chất để xử lý kịp thời các vấn đề cấp bách phát sinh; đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, nhất là trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước.

Các quyết định về chủ trương đầu tư dự án thủy điện, điện hạt nhân; về rút ngắn nhiệm kỳ Quốc hội; kéo dài nhiệm kỳ Hội đồng nhân dân; điều chỉnh địa giới hành chính; thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường…; về chưa đầu tư dự án xây dựng đường sắt cao tốc Hà Nội–Thành phố Hồ Chí Minh; về bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, miễn nhiệm nhân sự cấp cao của Nhà nước..., đều được Quốc hội xem xét kỹ lưỡng, thận trọng, bảo đảm quy trình chặt chẽ, dân chủ, công khai, gắn với việc thực hiện chức năng giám sát, nhất là quy trình thông qua các vấn đề kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước.

- Về hoạt động đối ngoại

Trong nhiệm kỳ khóa XII, Quốc hội đã tăng cường đối ngoại song phương, tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và thế giới. Củng cố, phát triển quan hệ với các nước láng giềng, các nước ASEAN và Đông Bắc Á, đẩy mạnh quan hệ với Hoa Kỳ, nghị viện Châu Âu, nghị viện nhiều nước thuộc liên minh Châu Âu, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu; khai thông và phát triển quan hệ với nghị viện nhiều nước thuộc khu vực Châu Phi và các nước Trung, Nam Mỹ theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta; quan tâm đẩy mạnh và củng cố quan hệ truyền thống với các nước Trung và Đông Âu, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương, Liên minh nghị viện thế giới, Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ, Hội nghị đối tác nghị viện Á-Âu. Tham gia đóng góp tích cực vào các diễn đàn, chủ động đề xuất các sáng kiến, những khuyến nghị nhằm thúc đẩy hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này; một số sáng kiến được nghị viện các nước tán thành và đưa vào Nghị quyết của Đại hội đồng. Đặc biệt, việc Quốc hội nước ta đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch và tổ chức thành công Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các nước Đông Nam Á lần thứ 31; được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên minh nghị viện thế giới nhiệm kỳ 2010-2011; đảm nhận cương vị Chủ tịch Nhóm ASEAN+3 đã đánh dấu sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao nghị viện Việt Nam, góp phần thiết thực vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực của nước ta.

Thông qua con đường ngoại giao nghị viện, các Đoàn của Quốc hội Việt Nam đã trực tiếp tham gia đối thoại nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp liên quan đến dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, những xung đột về quan hệ thương mại và đã thu được những kết quả tích cực. Công tác tuyên truyền đối ngoại được đẩy mạnh, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế; phát triển các quan hệ kinh tế và nâng cao vai trò, vị thế của nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế.

v) Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII (2011 – 2016)

- Bầu cử ngày 22 tháng 5 năm 2011

- Tổng số đại biểu: 500

Cơ cấu thành phần của Quốc hội như sau:

+ Trung ương                                    : 33,40%

+ Địa phương                                    : 66,60%

+ Đại biểu tham gia Quốc hội lần đầu   : 66,60%

+ Dân tộc thiểu số                              : 15,60%

+ Phụ nữ                                           : 24,40%

+ Đại biểu ngoài Đảng                         : 8,40%

+ Đại biểu khóa XII tái cử                    :33,40%

+ Đại biểu tự ứng cử                          : 0,80%

+ Đại biểu trẻ tuổi (dưới 40 tuổi)          : 12,40%

+ Đại biểu có trình độ trên đại học       : 45,80%

+Đại biểu có trình độ đại học              : 52,40%%

+ Đại biểu thuộc khối doanh nghiệp     :4,26%                 

+ Tôn giáo                                         : 2,84%

Đây là lần đầu tiên cử tri cả nước với trách nhiệm và lòng yêu nước nồng nàn đã tích cực tham gia cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016 trong cùng một ngày với quy mô lớn. Cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp với 99,51% cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 500 đại biểu Quốc hội tiêu biểu cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kết quả này đã khẳng định bước tiến mới trong quá trình sinh hoạt dân chủ của nước ta, thể hiện rõ ý thức chính trị, trách nhiệm công dân, trình độ dân trí, sự gắn bó và niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng vànhà nước ta.

Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội đã bầu Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm 17 thành viên do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng làm Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch và 12 ủy viên. Sau đó, tại kỳ họp 6, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã bầu bổ sung thêm 1 ủy viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nâng số thành viên của cơ quan này lên thành 18 thành viên.

Quốc hội cũng đã thành lập Hội đồng quốc phòng và an ninh; thành lập Hội đồng dân tộc và 9 uỷ ban của Quốc hội gồm: Uỷ ban pháp luật,Ủy ban tư pháp, Uỷ ban kinh tế, Ủy ban tài chính và ngân sách, Uỷ ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Uỷ ban về các vấn đề xã hội; Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường; Uỷ ban quốc phòng và an ninh, Uỷ ban đối ngoại.

Ngoài ra, Ủy ban thường vụ Quốc hội vẫn duy trì 3 cơ quan chuyên môn trực thuộc, đó là: Ban công tác đại biểu, Ban dân nguyện và Viện nghiên cứu lập pháp.

Được bầu ra và hoạt động trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi cơ bản những cũng không ít khó khăn thách thức, Quốc hội khóa XIII có vinh dự và trách nhiệm lớn trong việc kế thừa và phát huy những thành tựu và kinh nghiệm của Quốc hội các khóa trước, bám sát đường lối,chủ trương của Đảng và thực tiễn sinh động của cuộc sống, thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đây cũng là nhiệm kỳ đầu tiên Quốc hội cùng nhân dân cả nước thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội được bổ sung, phát triển tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ 11 năm 2011.

Đến tháng 10 năm 2015, Quốc hội khóa XIII đã trải qua 9 kỳ họp với nhiều thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có những điểm nổi bật như sau:

-Về hoạt động lập hiến, lập pháp

Thành tựu lớn nhất trong hoạt động lập hiến, lập pháp của Quốc hội trong nhiệm kỳ này là việc Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XIII đã biểu quyết thông qua toàn văn Dự thảo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi), với 486 đại biểu, tương đương 97,59% tổng số đại biểu Quốc hội tán thành.

Bản Hiến pháp gồm 11 chương, 120 điều, thể hiện nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài.

Đây là bản Hiến pháp thể hiện tinh thần đổi mới sâu sắc, tạo ra khuôn khổ pháp lý vững chắc cho sự vận hành toàn bộ đời sống xã hội trên nền tảng dân chủ, pháp quyền và tạo ra động lực mạnh mẽ để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (được bổ sung, phát triển vào năm 2011). Hiến pháp năm 2013 cũng thể hiện rõ tinh thần đề cao vai trò làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cao và được đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp 2013. Đó vừa là sự kế thừa Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo; vừa thể hiện nhận thức mới đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Hiến pháp cũng khẳng định các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; xác định các nguyên tắc cơ bản để hoàn thiện, đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước; bảo đảm sự phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước; giao cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cấp chính quyền địa phương đầy đủ thẩm quyền và trách nhiệm trong việc quản lý đất nước.

Đặc biệt, quá trình xây dựng Hiến pháp đã có sự tham gia, đóng góp ý kiến rộng rãi của các tầng lớp quần chúng nhân dân. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến nhân dân. Các cơ quan, tổ chức, địa phương, các cơ quan thông tin đại chúng, đã tổ chức triển khai việc lấy ý kiến nhân dân một cách khẩn trương, đồng bộ, dân chủ, rộng khắp. Kết quả đã có hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý của nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, với hơn 28.000 hội nghị, hội thảo, tọa đàm được tổ chức. Điều đó cho thấy bản Hiến pháp được thông qua lần này là kết quả của một quá trình làm việc cần mẫn, tâm huyết, tận tụy của các đại biểu Quốc hội, của đồng bào cử tri ở trong nước và ngoài nước, của các đơn vị, các ngành, các cấp và của cả hệ thống chính trị. Hiến pháp đã kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Ðảng, toàn dân, thể hiện tinh thần đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã tích cực thực hiện hoạt động lập pháp, thể chế hóa kịp thời và đầy đủ các chủ trương, đường lối của Đảng, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo ra khung pháp lý cho việc hình thành và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho đến hết kỳ họp thứ 9 (tháng 5 năm 2015), Quốc hội khóa XIII đã thông qua được 85 văn bản luật, bộ luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua được 10 văn bản pháp lệnh. Nhiệm kỳ này cũng đã đánh dấu kỷ lục số lượng văn bản luật, nghị quyết có chứa quyphạm pháp luật được Quốc hội thông qua tại một kỳ họp. Đó là vào kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII vừa qua, Quốc đã thông qua 11 văn bản luật và 1 nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật.

Từ nay đến hết nhiệm kỳ khóa XIII, Quốc hội cùng Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác tiếp tục khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm phù hợp với quy định, tinh thần của Hiến pháp mới. Theo Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, dự kiến có 89 dự án luật, pháp lệnh cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới, tập trung cao điểm vào các năm 2014 - 2016, bao gồm 4 nhóm dự án luật, pháp lệnh về: (1) Tổ chức bộ máy nhà nước và các thiết chế trong hệ thống chính trị; (2) Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; (3) Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; (4) Bảo vệ Tổ quốc, quốc phòng, an ninh. Cho đến nay (tháng 9 năm 2015), về cơ bản Quốc hội đã hoàn thành việc xây dựng các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị theo quy định của Hiến pháp mới, với tinh thần tôn trọng Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ nhân dân.

Quốc hội cũng đã dành sự quan tâm thích đáng trong thảo luận, cho ý kiến về các dự án Bộ Luật dân sự (sửa đổi), Bộ Luật tố tụng dân sự (sửa đổi), Bộ Luật hình sự (sửa đổi), Bộ Luật tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Tạm giữ, tạm giam, Luật Trưng cầu ý dân và một số luật khác nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về tư pháp theo quy định của Hiến pháp, định hướng cải cách tư pháp; bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường...

Về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII ngày càng có chất lượng, đáp ứng đúng yêu cầu của thực tiễn vì lợi ích của quốc gia, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Vào những năm đầu của nhiệm kỳ, tình hìnhkinh tế - xã hội của đất nước có nhiều khó khăn do chịu tác động củanhững diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới cũng như những bất ổn trong cấu trúc kinh tế của đất nước. Trong bối cảnh đó, Quốc hội đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, lắng nghe ý kiến, kiến nghị của cử tri, cùng với Chính phủ thảo luận để đề ra những giải pháp vượt qua khó khăn, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước. Cụ thể, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về ban hành bổ sung một số giải pháp về thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân; thảo luận về Đề án tái cơ cấu nền kinh tế; quyết định kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia, kế hoạch vốn trái phiếu Chính phủ,Nghị quyết về bổ sung một số dự án mới sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2015...

Đặc biệt, trong điều kiện ngân sách khó khăn, Quốc hội đã quyết định giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết và kém hiệu quả; bố trí vốn bảo đảm tỷ lệ chi cho các ngành, lĩnh vực quan trọng, cấp thiết; có nhiều giải pháp quyết liệt để cân đối thu - chi ngân sách nhà nước, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, phục hồi và tạo đà tăng trưởng cho những năm sau, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã có những quyết định quan trọng về kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2015, quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2011-2020; về công tác quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện; về điều chỉnh một số nội dung và giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh theo Nghị quyết số 38/2004/QH11.

Quốc hội cũng đã thảo luận, cân nhắc thận trọng và tiếp tục khẳng định sự cần thiết, tính đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành; coi đây là dự án quan trọng đặc biệt quốc gia, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng động lực phát triển phía Nam và cả nước.Quốc hội đã thông qua Nghị quyết quyết định chủ trương đầu tư Cảng hàng không quốc tế Long Thành, giao Chính phủ tiếp tục hoàn thiện báo cáo khả thi, tiến hành các công việc cần thiết để triển khai dự án và hàng năm báo cáo Quốc hội kết quả thực hiện.

Về hoạt động giám sát

Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã có nhiều nỗ lực để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát. Đặc biệt, hoạt động giám sát tối cao theo chuyên đề đã được tập trung vào những vấn đề bức xúc và cấp thiết của cuộc sống như về việc thực hiện chính sách, pháp luật về môi trường tại các khu kinh tế, làng nghề;việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế; việc thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo; việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản; việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế trong lĩnh vực đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng; về tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở kết quả thảo luận của các đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã ban hành nghị quyết về kết quả giám sát, qua đó nêu rõ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể mà Chính phủ, các cơ quan liên quan phải tập trung thực hiện.

Việc tiến hành các phiên chất vấn của Quốc hội tiếp tục được cải tiến, đổi mới theo hướng bảo đảm dân chủ, công khai, trách nhiệm, có tính tranh luận, đối thoại với tinh thần xây dựng. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, tại một số kỳ họp Quốc hội, trước khi tiến hành phiên họp chất vấn, trả lời chất vấn, Quốc hội đã tiến hành xem xét, thảo luận về báo cáo việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn. Trong quá trình chất vấn và trả lời chất vấn, các đại biểu Quốc hội đặt câu hỏi thẳng thắn, đúng trọng tâm, tập trung vào những vấn đề lớn được cử tri cả nước quan tâm. Các vị Bộ trưởng, Trưởng ngành cơ bản giải đáp được các vấn đề mà đại biểu Quốc hội nêu ra và với tinh thần trách nhiệm trước nhân dân đã đưa ra được một số giải pháp cụ thể để khắc phục tình hình. Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn của Quốc hội đã đề ra nhiều yêu cầu, đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao tiếp tục có những giải pháp tích cực để thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước.

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đã đánh dấu một dấu mốc lịch sử khilần đầu tiên trong lịch sử hoạt động của mình, Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được triển khai một cách thận trọng, nghiêm túc, theo đúng nội dung, quy trình, thủ tục được quy định trong Nghị quyết của Quốc hội và hướng dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Toàn bộ quy trình lấy phiếu tín nhiệm được làm một cách dân chủ, công khai, minh bạch để công luận và đồng bào, cử tri cả nước theo dõi, giám sát. Với trách nhiệm của mình, các vị đại biểu Quốc hội đã dành thời gian nghiên cứu, nắm bắt thông tin, thảo luận, đánh giá một cách thận trọng, khách quan, công tâm mức độ tín nhiệm của các vị được Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm của Quốc hội đã phản ánh chân thực tình hình kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và các hoạt động tư pháp của đất nước và cũng là nguồn thông tin, đánh giá để giúp cho từng vị được lấy phiếu tín nhiệm thấy được mức độ tín nhiệm của mình để tiếp tục phấn đấu, rèn luyện phẩm chất, nâng cao năng lực, hiệu quả công tác.

- Về hoạt động đối ngoại

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đánh dấu sự thành công vượt bậc trong hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Việc đăng cai tổ chức Đại hội đồng lần thứ 132 của Liên minh nghị viện thế giới tại Hà Nội trong tháng 3 năm 2015 là một sự kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử ngoại giao hết sức to lớn, thể hiện tinh thần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng của Quốc hội nước ta, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đây là hội nghị quốc tế đa phương có quy mô và sức ảnh hưởng lớn nhất mà Việt Nam đăng cai tổ chức với sự tham gia của gần 2.000 khách quốc tế, trong đó có khoảng 100 lãnh đạo nghị viện các nước trên thế giới. Chủ tịch và Tổng Thư ký IPU đều cho rằng, đây là một trong những kỳ Đại hội đồng được tổ chức tốt nhất trong hơn 30 năm qua, đánh giá cao nước chủ nhà Việt Nam không chỉ đóng góp tích cực cho công tác tổ chức mà còn tham gia đề xuất chủ đề của Phiên thảo luận toàn thể, đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng vào các dự thảo nghị quyết và văn bản của các phiên họp. Kết quả quan trọng nhất của Đại hội đồng đã được thể hiện qua tuyên bố của Đại hội đồng - Tuyên bố Hà Nội - một văn kiện thể hiện nguyện vọng và cam kết của IPU và các nghị viện thành viên trong việc biến lời nói thành hành động để xây dựng và thúc đẩy thực hiện những mục tiêu phát triển bền vững mà Liên hợp quốc đang xây dựng cho đến năm 2030. Bản Tuyên bố Hà Nội cũng là cơ sở để Hội nghị Thế giới các Chủ tịch Quốc hội lần thứ tư tổ chức tại trụ sở Liên hợp quốc ở New York thảo luận về chủ đề Phát triển bền vững – Biến các mục tiêu thành hành động.

Là chủ nhà của IPU 132, Việt Nam không chỉ đóng góp vào nội dung nghị sự và khâu tổ chức chu đáo mà còn tham khảo, chia sẻ được nhiều kinh nghiệm tốt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, xây dựng cơ quan giúp việc cho Quốc hội hiệu quả.

Bên cạnh việc tham gia các hoạt động trong khuôn khổ Liên minh nghị viện thế giới, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Quốc hội nước ta tiếp tục tăng cường hoạt động đối ngoại đa phương trên các diễn đàn khu vực và thế giới như Hội nghị thế giới các Chủ tịch Quốc hội, Đại hội đồng Liên nghị viện Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, Diễn đàn nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương, Liên minh nghị viện Cộng đồng Pháp ngữ, Hội nghị đối tác Nghị viện Á-Âu. Tham gia đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào các diễn đàn, chủ động đề xuất các sáng kiến, những khuyến nghị nhằm thúc đẩy hợp tác có hiệu quả của các tổ chức này; một số sáng kiến được nghị viện các nước tán thành và đưa vào Nghị quyết của Đại hội đồng.

Trong hoạt động đối ngoại song phương, Quốc hội khóa XIII cũng đã có nhiều nỗ lực để tạo sự chuyển biến tích cực trong quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt vớinghị viện các nước trong khu vực và thế giới, đưa các mối quan hệ này đi vào thực chất, phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu theo chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong quá trình tham gia các hoạt động ngoại giao nghị viện, các đoàn đại biểu của Quốc hội Việt Nam đã nêu và trực tiếp tham gia thảo luận, đối thoại về nhiều vấn đề liên quan đến lợi ích của đất nước, góp phần vào việc thông tin, quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế; phát triển các quan hệ kinh tế và nâng cao vai trò, vị thế của nước ta nói chung, Quốc hội nói riêng trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, một số kỳ họp của Quốc hội diễn ra trong lúc tình hình khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, nguy hiểm, khó lường, chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trên Biển Đông bị đe dọa nghiêm trọng. Hòa chung nhịp đập trái tim của đồng bào, chiến sĩ cả nước, các vị đại biểu Quốc hội đã mạnh mẽ lên án hành động sai trái của phía Trung Quốc. Quốc hội đã thảo luận sâu sắc, ra thông cáo tuyên bố lập trường chính nghĩa của Việt Nam, kiên quyết phản đối các hành động sai phạm và đồng thời kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết một lòng thống nhất ý chí, hành động, ủng hộ và thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên cơ sở luật pháp quốc tế; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; gìn giữ quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân hai nước Việt Nam – Trung Quốc.

- Về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đã đánh dấu lần đầu tiên Quốc hội đã ban hành nghị quyết về đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Tại kỳ họp thứ 3, sau khi xem xét Đề án tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 27/2012/QH13 về một số cải tiến, đổi mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Các giải pháp đổi mới được tập trung vào 7 nội dung cơ bản gồm: (i) hoạt động lập pháp; (ii) hoạt động giám sát; (iii) quyết định các vấn đề quan trọng; (iv) tổ chức kỳ họp Quốc hội; (v) tổ chức phiên họp Ủy ban thường vụ Quốc hội; (vi) hoạt động tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội; (vii) công tác bảo đảm phục vụ hoạt động của Quốc hội. Các giải pháp này đã được triển khai áp dụng và đã chứng tỏ những hiệu ứng tích cực trên thực tế. Nhiều giải pháp được đề cập trong Nghị quyết số 27/2012/QH13 đã được thể chế thành các quy định trong Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về tổ chức và hoạt động của Quốc hội.

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ này, Quốc hội cũng đã có nhiềuđổi mới để tăng cường mối quan hệ giữa Quốc hội với cử tri, các đại biểu Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Điều này được thể hiện qua việc Quốc hội đã có nhiều cơ chế để cử tri có thể đóng góp ý kiến vào các quyết định của Quốc hội như đổi mới cách thức tiếp xúc cử tri, đăng tải dự thảo để cử tri đóng góp ý kiến trên trang Dự thảo Online; có cơ chế đối thoại giữa cử tri và đại biểu Quốc hội; tăng cường số lượng các phiên họp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội được phát thanh, truyền hình trực tiếp. Đặc biệt, các ý kiến, phản ánh của cử tri đã được Quốc hội quan tâm và phản hồi nhanh chóng. Ví dụ nổi bật nhất là việc Quốc hội đã kịp thời ban hành nghị quyết về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động (Điều 60 của Luật bảo hiểm xã hội) ngay sau khi có ý kiến của một bộ phận cử tri có quyền và lợi ích liên quan.

Về cải tiến, đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy giúp việc

Cùng với sự đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy giúp việc của Quốc hội cũng là một trong những trọng tâm trong nhiệm kỳ này. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 1 tháng 10 năm 2003 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội. Theo đó,Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 618/2013/UBTVQH13 ngày 10 tháng 7 năm 2013 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 471/2003/NQ-UBTVQH11. Theo quy định của Nghị quyết này, Văn phòng Quốc hội đã được tổ chức lại theo hướngđổi mới mô hình tổ chức bộ máy giúp việc theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả, hợp lý; phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng; có sự liên thông, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, bảo đảm không chồng chéo và phân tán nguồn lực để tiếp tục nâng cao chất lượng tham mưu, phục vụ các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội[1].

Bên cạnh đó, trên cơ sở kết quả nghiên cứu về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy giúp việc, tham khảo kinh nghiệm của nghị viện các nước trên thế giới và trên cơ sở yêu cầu hội nhập quốc tế, trong quá trình xây dựng Luật tổ chức Quốc hội năm 2014, Quốc hội cũng đã quyết định thành lập chức danh Tổng thư ký Quốc hội có trách nhiệm tham mưu, phục vụ hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, đại biểu Quốc hội và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn khác. Việc thành lập chức danh Tổng thư ký là bước phát triển mới, khẳng định tầm quan trọng của bộ máy giúp việc của Quốc hội trong việc góp phần vào những thành công trong hoạt động của Quốc hội.

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII cũng đánh dấu sự vươn lên vượt bậc trong công tác thông tin, tuyên truyền về các hoạt động của Quốc hội. Đó là sự ra đời của Kênh truyền hình Quốc hội Việt Nam là một kênh tin tức chuyên biệt trên truyền hình về Quốc hội, thường xuyên cung cấp những thông tin, tình hình hoạt động của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội tới công chúng, cử tri trong nước và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Cổng thông tin điện tử của Quốc hội cũng đã được xây dựng để tổ chức, quản lý và công bố các thông tin chính thức của Quốc hội trên internet, kết nối mạng thông tin của Quốc hội với các Đoàn đại biểu Quốc hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các tổ chức, cơ quan liên quan. Bên cạnh đó, tổ chức và hoạt động của báo Đại biểu nhân dân, là tiếng nói của Quốc hội, diễn đàn của đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và cử tri cũng được kiện toàn. Nhiều hoạt động, chương trình thông tin công chúng của Quốc hội cũng được tổ chức để đưa thông tin về tổ chức và hoạt động của Quốc hội đến với người dân như các triển lãm về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các chương trình thăm quan Tòa nhà Quốc hội, chương trình Quốc hội trẻ v.v...

- Về hoàn thiện cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Quốc hội

Trong lịch sử, vì điều kiện khách quan nên Quốc hội Việt Nam đã tổ chức các kỳ họp của mình ở nhiều địa điểm khác nhau. Quốc dân Đại hội Tân Trào, tiền thân của Quốc hội Việt Nam, được tổ chức tại Đình Tân Trào, Tuyên Quang. Các kỳ họp sau đó được lần lượt được tổ chức ở các địa điểm khác nhau gồm Nhà hát lớn Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, Hội trường Ba Đình và Hội trường của Bộ Quốc phòng.

Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII đánh dấu sự hoàn thành và đưa vào vận hành Tòa nhà Quốc hội, Hội trường Ba Đình mới. Từ kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội cũng như nhiều hoạt động khác của Quốc hội được tổ chức tại Tòa nhà Quốc hội, Hội trường Ba Đình mới. Đây là công trình hiện đại, tạo điều kiện phục vụ tối đa cho các hoạt động của Quốc hội và góp phần nâng cao vị thế của Quốc hội. Đồng thời, việc đưa công trình nào vào sử dụng cũng đã tạo điều kiện để công chúng có thể vào thăm quan, dự thính các phiên họp toàn thể của Quốc hội, tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đưa Quốc hội trở nên gần gũi hơn với quần chúng nhân dân.

Bên cạnh Tòa nhà Quốc hội, trong nhiệm kỳ này, nhiều công trình, cơ sở vật chất khác cũng đã được đưa vào hoạt động để kịp thời phục vụhoạt động của Quốc hội, góp phần đưa hoạt động của Quốc hội lên một tầm cao mới.

Tóm lại, với nhiều nỗ lực đổi mới, trong nhiệm kỳ khóa XIII,Quốc hội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao, cùng với nhân dân cả nước vượt qua nhiều khó khăn để đạt được nhiều mục tiêu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập với cộng đồng quốc tế. Những thành tựu đó là những điểm nhấn để kỷ niệm 70 năm ngày Tổng tuyển cử đầu tiên bầu ra Quốc hội Việt Nam, đánh dấu quá trình xây dựng và trưởng thành của Quốc hội đồng hành cũng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.






Post a Comment

0 Comments